Đất Mũi Cà Mau đậm chất phóng khoáng
Cà Mau là một vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, nằm trong khu vực ĐBSCL với thảm rừng tràm bạt ngàn và hệ sinh thái rừng ngập mặn trải dài, nối liền từ U Minh Thượng đến cửa Gành Hào (giáp tỉnh Bạc Liêu), lịch sử phát triển vùng Đất Mũi Cà Mau gắn liền với việc khai hoang mở cõi của các cộng đồng lưu dân người Kinh, Hoa, Khmer.
Việc khai phá vùng đất ĐBSCL bắt đầu từ Mạc Cửu. Mạc Cửu là người Lôi Châu, Quảng Đông, không chấp nhận triều đình nhà Thanh (bắt dân róc tóc) nên mang theo gia quyến đến đất Mang Khảm (thuộc phủ này mà người Hoa gọi là Phương Thành) và chiêu nạp lưu dân tứ xứ thành lập nên 7 xã thôn đầu tiên ở vùng đất này (gọi là Hà Tiên), trong đó có vùng đất Cà Mau hiện nay.
Tên gọi Cà Mau có xuất phát điểm từ cách đồng bào Khmer gọi tên vùng đất này là "Tưk Kha-mau", có nghĩa là nước đen. Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước.
Bề dày lịch sử
Xứ Cà Mau - đạo Long Xuyên khi đó có Đốc Huỳnh cảng và Hàu Ky cảng là hai cảng biển sầm uất nhất trong khu vực. Đó là hai cảng biển giao thương với các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó là những tên đất, tên sông như: Ông Do, sông Ông Đốc, vàm Cái Tàu, Cái Rắn, Ao Kho, Giếng Ngự, Chắc Băng... là những nơi còn lưu dấu của Nguyễn Ánh (tên tục của vua Gia Long) khi bôn ba chạy loạn.
Lịch sử của vùng Đất Mũi Cà Mau không thể không kể đến vai trò của các dân tộc có mặt nơi đây. Dân tộc Kinh, Hoa, Khmer hàng trăm năm nay đã cùng cộng cư và chung tay bồi đắp, xây dựng nên mảnh đất này. Với các ngành nghề truyền thống như: hầm than, đan đát, dệt chiếu, nấu rượu... đã tạo nên nhiều thương hiệu nổi tiếng như: chuối khô Kiểu Mẫu, đan đát Thới Bình, rượu đế Tân Lộc, chiếu Tân Thành, mật ong U Minh, than đước Năm Căn, ba khía Rạch Gốc...
Lịch sử mở đất ở Cà Mau ngoài yếu tố con người thì yếu tố thiên nhiên cũng nắm giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Cà Mau được 2 dòng hải lưu ở biển Đông và Vịnh Thái Lan đón nhận phù sa của dòng sông Mê-Kông hùng vĩ bồi đắp.
Vì đây là vùng trũng, thấp, chủ yếu do phù sa lắng đọng nên độ cao không hơn nhiều so với mặt nước biển. Bên trong đất liền, nhiều cánh rừng tràm nguyên sinh nối tiếp như khẳng định vị trí độc tôn của mình trên mảnh đất này. Nhưng bên ngoài, dọc ven hơn 200 km bờ biển là cây mắm, cây đước.
Cây mắm và cây đước là 2 loài cây đặc hữu tạo nên Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau vừa được tổ chức UNESCO công nhận. Cây mắm âm thầm lấn từng bước một vươn ra biển, chặn dòng phù sa, thu gom phù sa để cây đước bám theo sau giữ lấy. Chúng nhịp nhàng từng bước, từng bước một làm cho chót mũi Cà Mau ngày càng thêm rộng ra về phía biển.
Những năm đầu thế kỷ XX, cánh rừng sác Cà Mau có đến hơn 300.000 ha, nhưng hiện nay do sự tàn phá của chiến tranh, sự biến đổi của sinh thái thiên nhiên và sự thiếu ý thức bảo vệ của con người mà diện tích chỉ còn lại gần 200.000 ha. Với diện tích và tầm quan trọng của rừng Cà Mau, các nhà khoa học xác định rằng thảm rừng ngập mặn này chỉ đứng sau cánh rừng sác bên bờ sông Amazon của châu Mỹ.
Những nét văn hóa đặc sắc
Bức tranh của sự phát triển vùng Đất Mũi Cà Mau không thể không kể đến nét văn hóa trong nếp sinh hoạt hằng ngày của cộng đồng cư dân nơi đây. Đến xóm Mũi, nơi có mỏm đất doi ra ngoài biển ở đất cực Nam Tổ quốc mới thấy đời sống cư dân ở đây vô cùng văn hóa.
Cái văn hóa đậm chất phóng khoáng của người dân Nam Bộ được hiển hiện một cách tự nhiên. Người dân ở xóm Mũi từ bao đời nay vẫn sinh hoạt ngay dưới mái nhà của mình - mái nhà dưới tán rừng đước mênh mông không có cửa.
Ngôi nhà của cư dân Đất Mũi khá rộng về chiều ngang, nhưng hầu hết đều không có cửa. Nếu cần che nắng, gió họ chỉ sử dụng một tấm mành bằng ni-lông căng ngang mặt nhà. Không phải người dân nơi đây không có của ăn của để nên không sợ bọn trộm đạo đến viếng. Ngoài một số hộ dân vẫn còn khó khăn, đa phần người dân ở đây sinh sống bằng nghề đánh bắt ngoài biển và nuôi tôm nên kinh tế hộ gia đình cũng có phần nào khấm khá.
Nhưng làm nhà không có cửa như người dân nơi đây cốt là để được thoáng mát, được hưởng trọn luồng gió tươi từ mặt sông thổi vào, thậm chí ghe, xuồng (là phương tiện đi lại thuận tiện nhất xứ này) cũng chỉ cột tạm bợ vào trụ sàn nhà.
Gần ba trăm năm trước, ông cha ta đã băng rừng, vượt biển mở mang bờ cõi. Từ một tên đất chỉ được gọi và ghi nhớ trong ký ức của mỗi người, nay vùng đất Cà Mau mang trong mình hơi thở của sức trẻ. Mỗi ngày một lớn thêm hơn không chỉ về tốc độ phát triển các ngành dịch vụ mà thực chất vùng Đất Mũi ngày nay mỗi năm còn vươn ra biển vài chục mét.
Chúng ta, những người hậu bối cần phải trân trọng giữ gìn những giá trị đó để khi lần giở những trang sử cũ mà giật mình, cố gắng học tập để biết được công sức của người xưa mà trân trọng hơn, yêu quý hơn vùng đất này để luôn thấm thía lời thơ của Nhà thơ Xuân Diệu đã ca ngợi "Tổ quốc ta như một con tàu/Mũi thuyền ta đó Mũi Cà Mau".