Giới thiệu chung
Giới thiệu tổng quan
Diện tích tự nhiên 5.211 km2, địa hình bằng phẳng thuần nhất là đồng bằng, đất đai phì nhiêu, sông ngòi chằng chịt. Hàng năm ở phía Tây vùng Mũi Cà Mau bồi ra biển trên 50 mét. Ngoài biển có đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Bương và Hòn Đá Bạc. Khí hậu Cà Mau ôn hoà thuộc vùng cận xích đạo, nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, không bị ảnh hưởng của lũ và ít có bão.
- Cà Mau giàu tài nguyên về rừng và biển. Hệ sinh thái rừng ngập nước có diện tích gần 100.000 ha được chia thành 2 vùng: rừng ngập lợ với đặc trưng cây tràm là chủ yếu nằm sâu trong đất liền ở vùng U Minh hạ; rừng ngập mặn với đặc trưng cây đước, cây mắm là chủ yếu ở vùng Mũi Cà Mau và ven biển; trong rừng có nhiều loài động vật, thực vật phong phú với trữ lượng lớn là đặc sản của rừng ngập nước. Rừng Cà Mau trở thành nổi tiếng trên thế giới và chỉ đứng sau rừng ngập mặn ở Cửa sông Amazôn (Brazil). Bờ biển Cà Mau dài 254 km chạy từ phía biển Đông sang vịnh Thái Lan, bờ biển thấp, nền đất yếu và bằng phẳng. Diện tích vùng biển Cà Mau rộng trên 71.000 km2, độ sâu trung bình từ 30 đến 35 mét; trong lòng biển có nhiều loài tôm cá, dưới thềm lục địa có trữ lượng dầu khí và khí đốt rất lớn, có khả năng khai thác trong nhiều năm. Biển Cà Mau có vị trí trung tâm đường biển trong vùng Đông Nam Á và sát với đường biển quốc tế, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.
Do có vị trí địa lý tiền tiêu, tài nguyên thiên nhiên phong phú, những đặc thù về sinh thái rừng, biển, khí hậu thuận lợi... tạo cho Cà Mau có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế thủy sản, nông lâm nghiệp, công nghiệp chế biến xuất khẩu, dịch vụ, du lịch, khai thác khí đốt và dầu khí.
- Dân số Cà Mau có 1.200.000 người, phân bố tương đối đều, mật độ trung bình 230 người/km2, người Kinh chiếm 97% dân số, còn lại là người Khơmer, người Hoa và một số dân tộc ít người khác. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 60%, đa số là lao động trẻ, cần cù, có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều lĩnh vực. Địa giới hành chính được chia thành 8 huyện và 1 thành phố; có 97 xã, phường, thị trấn; 860 ấp, khóm. Thành phố Cà Mau là trung tâm tỉnh lỵ nằm trên trục quốc lộ IA và quốc lộ 63 có ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế, quốc phòng. Nhịp độ phát triển đô thị của Cà Mau khá nhanh; mấy chục năm trước từ là thị xã bé nhỏ, nay Cà Mau là thành phố; thị trấn Năm Căn, Sông Đốc, Cái Đôi Vàm, cửa biển Khánh Hội, ông Trang, Rạch gốc, Gành Hào... cũng đang hình thành dáng dấp đô thị sầm uất của dải hành lang đô thị ven biển.
2. Lịch sử, văn hóa tỉnh Cà Mau
Hải đăng Hòn Khoai
- Nguồn gốc xa xưa Cà Mau là vùng đất hoang vu, rừng rậm, mặt đất ẩm thấp, thiếu nước ngọt, ruộng nhiều phèn, nhiều muỗi vắt nên vắng người sinh sống. Đến cuối thế kỷ 17 Cà Mau là mảnh đất cuối cùng trên con đường của người Việt chinh phục hoang vu mở mang bờ cõi. Năm 1680 một số ấp ở ven sông Bảy Háp, sông Ông Đốc, sông Gành Hào được hình thành. Năm 1714 Mạc Cửu dâng phần đất Cà Mau cho chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ là con Mạc Cửu vâng lệnh triều đình lập ra đạo Long Xuyên mang tính chất quân sự để cai quản. Năm 1882 Cà Mau tách khỏi Rạch Giá, Bạc Liêu tách khỏi Sóc Trăng thành lập ra tỉnh Bạc Liêu, đây là hạt thứ 21 của Nam kỳ thuộc địa. Sau nhiều lần thay đổi địa giới và tên tỉnh, đến đầu năm 1976 Cà Mau-Bạc Liêu được đổi tên là tỉnh Minh Hải. Đến ngày 01/01/1997 Minh Hải lại tách ra thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu.
- Những người tiên phong khai hoang mở đất thuở đó chủ yếu là người Kinh quê ở miền Bắc, miền Trung khát khao sống tự do, không chịu khuất phục cường quyền, bạo lực; là nạn nhân của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn muốn tìm mảnh đất sống yên thân; là những chiêu mộ của các nhà giàu có đưa vào khai hoang lập ấp; là những binh lính, tội đồ ... những người Hoa, Khơmer nghèo khổ lưu lạc dừng chân tại nơi đây. Tất cả những con người rời quê bất chấp khó khăn, băng ngàn vượt biển vào Nam tìm nơi sinh cơ lạc nghiệp, gọi chung là dân lưu tán. Việc biến những khu rừng bạt ngàn âm u, ngập mặn nhiều phèn thành cánh đồng lúa phì nhiêu cò bay thẳng cánh, nghĩa là các thế hệ đi trước đã can đảm vật lộn với thiên nhiên, thú dữ, muỗi vắt, bao nhiêu mồ hôi nước mắt và cả máu đổ ra để tạo thành nơi sinh sống lý tưởng như ngày nay.
- Con người Cà Mau chất phác, mến khách, trọng nghĩa tình; giàu tình yêu quê hương đất nước, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ trước những năm 30 ở Cà Mau đã có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân chống lại địa chủ, hương quản cướp bóc ruộng đất. Năm 1930 các chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập để lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức. Hưởng ứng cuộc khởi nghiã Nam Kỳ, năm 1940 Tỉnh ủy Cà Mau đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai giành thắng lợi, ghi vào trang vẻ vang của tỉnh. Từ đó ngày khởi nghĩa Hòn Khoai 13/12 trở thành ngày truyền thống của Đảng bộ, quân dân tỉnh Cà Mau.
- Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Cà Mau là quê hương căn cứ địa cách mạng kiên cường, đã tổ chức hàng nghìn trận đánh và chống càn chặn địch, nổi tiếng như mặt trận Tân Hưng, chiến thắng Nhị Nguyệt, chiến thắng Mương Điều v.v.. thời chống Pháp. Đánh tiêu diệt chi khu Đầm Dơi, Chi khu Cái Nước, cứ điểm Chà Là, tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân, đánh vào tận sào huyệt của địch tại thị xã Cà Mau và cùng cả nước làm nên đại thắng mùa xuân 1975, kết thúc 20 năm chống Mỹ cứu nước.
Tỉnh Cà Mau có 45 tập thể, 21 cá nhân được phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang, 507 bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên 11.000 thương binh và 16.000 liệt sỹ đã anh dũng hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự phấn đấu hy sinh to lớn của Đảng bộ và quân dân Cà Mau trong 2 cuộc kháng chiến, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước đã tặng thưởng cho tỉnh Huân chương Sao Vàng.
Địa bàn Cà Mau từng là nơi hoạt động của nhiều đồng chí cách mạng tiền bối như Lê Duẩn, Tạ Uyên, Phạm Hồng Thám, Phạm Hùng, Võ Văn Kiệt v.v.. là nơi đóng quân của nhiều cơ quan, đơn vị vùng Tây Nam bộ. Mảnh đất này đã sản sinh ra những tấm gương anh hùng tiêu biểu như: Trần Văn Thời, Phan Ngọc Hiển, Lâm Thành Mậu, Nguyễn Việt Khái, Hồ Thị Kỷ, Lý Văn Lâm v.v... Mũi Cà Mau còn là bến tiếp nhận vũ khí, đạn dược của đường Hồ Chí Minh trên biển, đến nay còn để lại sự huyền bí về ý chí oai hùng và sứ mệnh lịch sử của những "con tàu không số" mà người anh hùng Bông Văn Dĩa của Cà Mau trở thành tiêu biểu. Trong thời kỳ bảo vệ Tổ quốc Cà Mau lập nên chiến công CM 12 vào năm 1984, phá tan kế hoạch xâm nhập của tổ chức phản động ở nước ngoài do bọn Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh cầm đầu. Những chiến công và tấm gương đó đi vào lịch sử là niềm tự hào mãi mãi của quê hương Cà Mau.
- Sắc thái văn hóa của Cà Mau có sự dung hòa đa dạng và phong phú do được tiếp thu của nhiều nền, nhiều miền văn hóa, nhiều tôn giáo khác nhau. Những tập quán, thuần phong mỹ tục của người Kinh là chủ đạo có ảnh hưởng qua lại với người Khơme, người Hoa tạo nên sự hài hòa chung cho nhiều dân tộc. Do đặc điểm sống ở vùng sông nước, rừng biển sâu xa nên loại hình đàn ca cải lương trở thành nếp sinh hoạt văn nghệ phổ biến trong nhân dân; miền đất này có truyện cười dân gian của Bác Ba Phi đầy huyền thoại; có làn điệu thơ Bạc Liêu của nghệ sĩ Thái Đắc Hàng. Hàng năm nhân dân tổ chức lễ hội Nghinh Ông ở cửa biển Sông Đốc và một số lễ hội dân gian khác.
- Những địa danh lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh có sức thu hút du khách như Mũi Cà Mau, đảo Hòn Khoai, Hòn Đá Bạc, rừng đước Năm Căn, rừng tràm U Minh hạ, bãi Khai Long, Giá Lồng đèn, các sân chim, công viên Văn hóa, đầm Thị Tường v.v.. Tên tuổi của những danh nhân văn hóa như nhà giáo Phan Ngọc Hiển, nhà báo Nguyễn Mai, bác Ba Phi, v.v..đã để lại trong lòng người sự mến yêu, ngưỡng mộ về cảnh vật hữu tình, con người dũng khí của đất Cà Mau.
3. Thành tựu
Lễ 30/4/2005
Thành tựu nổi bật của Cà Mau những năm đổi mới là nhịp độ tăng trưởng kinh tế không ngừng phát triển. Tổng giá trị sản phẩm (GDP) giai đoạn 1991 - 2000 tăng 7,75%/năm; giai đoạn 2001 - 2005 tăng 11,36%/năm. Đến năm 2005 cơ cấu kinh tế: nông-ngư nghiệp 52,26%, công nghiệp-xây dựng 25,1%, dịch vụ 22,3%. Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp có tỷ trọng kinh tế thủy sản chiếm trên 80%, là ngành kinh tế quan trọng nhất của tỉnh.
Những chỉ tiêu cơ bản của tỉnh Cà Mau đạt được đến năm 2005 đều có mức tăng trưởng cao ở giai đoạn 2001-2005: giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 18,7%; giá trị sản xuất ngư-nông nghiệp tăng bình quân 5,14%/năm; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 19%. Thu ngân sách tăng bình quân 22%/năm. Sản lượng tôm đạt 100.000 tấn, tăng gấp đôi so với năm 2000; kim ngạch xuất khẩu đạt 525 triệu USD, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư phát triển như đường giao thông, hệ thống thủy lợi, xây dựng trường học, bệnh viện, lưới điện, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường v.v.. làm thay đổi đáng kể bộ mặt đô thị và nông thôn. Đời sống dân cư không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 tương đương 584 USD, tăng trên 66,8% so với năm 2000. Mức sống dân cư đến năm 2005 đã có 15% hộ giàu, 32% hộ khá, tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) giảm còn 6,3%. Nhà ở của dân cư được xây dựng, sửa sang khang trang hơn, nhà kiên cố chiếm 13,96%, bán kiên cố 52,33%, nhà đơn sơ và nhà tạm 33,72%; so với năm 1999 tỷ lệ nhà kiên cố tăng 3,5 lần, giảm 15% nhà đơn sơ, nhà tạm. Tỷ lệ hộ sử dụng điện đạt 80%; điện thoại đạt 13 máy/100 dân, tăng nhiều lần so với 5 năm trở lại đây.
- Tỉnh tích cực áp dụng các chính sách thông thoáng, khuyến khích ưu đãi đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Đến nay trong tỉnh đã có trên 2.100 doanh nghiệp với số vốn đăng ký kinh doanh trên 2.700 tỷ đồng; kinh tế tập thể, kinh tế trang trại cũng đang phát triển, mở rộng mô hình hoạt động. Các thành phần kinh tế đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Giai đoạn từ năm 2001 đến 2005, tổng vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 11.000 tỷ đồng, chiếm 24% GDP, tăng trung bình 14%; dự án Khí-Điện-Đạm và một số dự án khác của Trung ương được xây dựng trên địa bàn tỉnh với quy mô lớn đang là động lực thu hút vốn đầu tư của nhiều doanh nghiệp trong nước, nước ngoài.
- Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, nhân dân hăng hái tham gia phong trào xã hội hóa về giáo dục-đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; những hộ nghèo, gia đình chính sách, đồng bào dân tộc được chăm lo. Tỷ lệ người biết chữ đạt 95%, có 18% lực lượng lao động được đào tạo và có tay nghề. Hàng năm có gần 20.000 lao động được tạo việc, tỷ lệ lao động thiếu việc làm giảm đáng kể. Hiện nay tỉnh duy trì 100% số xã có bác sĩ; có 80% hộ gia đình được công nhận đạt chuẩn văn hóa. Các tệ nạn xã hội từng bước được đẩy lùi, an ninh, quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội và bảo đảm an toàn giao thông được quan tâm thực hiện. Môi trường của Cà Mau đang là mảnh đất an toàn cho nhân dân và các nhà đầu tư yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
Với những điều kiện tự nhiên phong phú, giàu tiềm năng; với truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp; nhân dân có tinh thần lao động sáng tạo, vượt qua khó khăn đang quyết tâm phấn đấu xây dựng Cà Mau trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh của miền cực Nam Tổ quốc.
Phạm Văn Uýnh